Sự khao khát tâm linh
Sự kiện sư Thích Minh Tuệ tại Việt Nam trong mấy tuần qua khiến mọi người, nhất là những người có tôn giáo, đặc biệt quan tâm. Điều khiến họ quan tâm, chính là có rất đông người đi theo ông, thậm chí lên đến cả hàng trăm, có lúc lên đến cả ngàn người [*]. Ngoài những người đi theo vì tò mò, hiếu kỳ, cũng có rất nhiều người cảm phục ông, tôn kính ông, có người còn coi ông như một vị thánh sống... Những tâm tình khác nhau ấy được biểu lộ qua thái độ của họ.
[*] https://www.youtube.com/watch?v=4e0ZN7tt9gY
Trong bài giảng của linh mục Phạm Quốc Văn trong một video ngắn [**], vị linh mục này cho rằng một trong những lý do khiến người ta cảm phục và đi theo ông sư ấy chính là sự khao khát tâm linh.
[**] https://www.youtube.com/shorts/gpmCdys56WU
I. Sự khao khát tâm linh
Sự khao khát tâm linh đó là gì? có phải là những bài giảng thuyết thật hay, thật hấp dẫn, thật chất lượng, thật thuyết phục, thật cảm động chăng? ─ Có thể lắm. Trong thời đại bùng nổ thông tin này, người ta có thể tìm thấy hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn bài giảng thuyết về tâm linh, về tôn giáo trên các video youtube của các linh mục, của các nhà sư… Quả thật trong đó có những bài đánh động lương tâm, đánh động rất mạnh tâm hồn con người. Nhưng cuối cùng, người ta cũng chỉ kết luận được rằng đó là một bài nói rất hay, rất cảm động... lay động được tâm hồn con người. Nhưng dường như tác động chỉ có thế, chứ không đủ mạnh để thúc đẩy người ta thực hiện những dấn thân cụ thể.
Nói tới đây, tôi nghĩ tới câu «Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn» trong kho tàng văn hóa của người Việt. Và tôi nghĩ có lẽ điều khao khát tâm linh mà linh mục Phạm Quốc Văn nói đến, đó là những «gương bày lôi cuốn», những chứng từ sống động được thực hiện bởi những chứng nhân cụ thể. Họ khao khát được tận mắt nhìn thấy sự phù hợp hoàn toàn giữa những lời thuyết giảng và đời sống thật của người thuyết giảng .
Dường như trong môi trường sống của người Việt Nam hiện nay, sự phù hợp giữa lời nói và việc làm của những người hướng dẫn tâm linh không nhiều, nên khi thấy sư Minh Tuệ tương tự như một tấm gương sống động phản ảnh trung thực những giáo huấn của Đức Phật, thì không chỉ các Phật tử, mà cả những tín đồ tôn giáo khác cũng nể phục và tỏ lòng kính trọng.
Sự kiện sư Minh Tuệ là một dịp để người Kitô hữu, tức người «có Chúa Kitô», hay người chủ trương sống theo Chúa Kitô, xét xem mình đã thật sự sống phù hợp với giáo huấn của Ngài chưa.
II. Bản chất đích thực của người Kitô hữu là gì?
Trong bài Tin Mừng một Chúa nhật nọ kể lại chuyện Mẹ và anh em Đức Giêsu đến tìm Ngài (Mc 3:31-35). Điều làm nhiều người ngạc nhiên khi đọc đoạn Tin Mừng này là câu Ngài nói: «Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi» (Mc 3:35). Một cách nào đó, Ngài muốn xác định người Kitô hữu đích thực phải là người «thi hành ý muốn của Thiên Chúa». Cốt yếu hay bản chất đích thực của người Kitô hữu là ở chỗ đó.
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu từng nhiều lần xác định bản chất phải có của người Kitô hữu, nhất là của những môn đệ Ngài như:
● «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi» (Mt 7:21).
● «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.… Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7:24-26). Rõ ràng nghe và hiểu Lời Chúa không đủ; nếu không thật sự thực hành trong đời sống thì… dường như chẳng ích lợi bao nhiêu.
● «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mt 16:24).
● «Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy» (Mt10:38).
● «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên... Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy» (Ga 10:11-12).
● «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13:34)
● «Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13:35). Còn nhiều câu khác nữa.
Tóm lại, sự khao khát tâm linh của con người thời đại hiện nay, đó chính là được nhìn thấy tận mắt những chứng nhân với những chứng từ sống động về những lời vị giáo chủ của mình dạy bảo.
III. Lời giảng giúp người ta hiểu, làm chứng giúp người ta tin
Để được cứu rỗi, đức tin là một yếu tố tối cần thiết như Đức Giêsu từng xác định: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án» (Mc 16:16; x. Cv 16:31; Rm 10:9). Nhưng làm sao tin được một chuyện mình không biết, không thấy, nếu không có ai nói cho biết. Nhưng làm sao tin được người nói cho biết ấy, nếu người ấy không có bằng chứng hay không có đủ uy tín để bảo đảm? Làm sao tin được người nói hay rao giảng thật là hay, nhưng đời sống hay việc làm của họ thì lại hoàn toàn đi ngược lại điều họ rao giảng?
Ngày xưa, thời Giáo Hội sơ khai, Kitô giáo lan truyền rất nhanh, vì thời ấy, các tông đồ làm chứng nhiều hơn là rao giảng. Còn ngày nay, Kitô giáo lan truyền rất chậm, rất nhiều nơi bị giảm sút, tại sao? Vì những người làm tông đồ ngày nay quá chú trọng tới rao giảng, mà coi nhẹ việc làm chứng! Đó là một sự thật mà người Kitô hữu cần nhận chân một lần cho sâu sắc, để chỉnh trang lại cách truyền giáo hay làm tông đồ của mình.
IV. Tại sao phải làm chứng? ─ Thưa: Để người ta tin và sống niềm tin ấy
Ngày nay, để tìm hiểu Kitô giáo, người ta chỉ có cách là tìm hiểu trong sách vở, hoặc nghe một người Kitô hữu nào đó trình bày. Nhưng từ việc hiểu đến việc tin là cả một quá trình khó vượt qua! Nhiều người hiểu rất rõ mà đâu có tin, chẳng hạn như ông Mahama Gandhi ở Ấn Độ, v.v... Rồi từ việc tin đến việc thực hành niềm tin ấy lại là một quá trình khác khó hơn nhiều nữa. Điều này không cần phải dẫn chứng vì ai cũng thấy được.
Ngày nay, không còn có những nhân chứng đã tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu sống, nói, hành xử, làm phép lạ, chết và sống lại, hay thấy các tông đồ làm chứng bằng cả cái chết như thời Giáo Hội sơ khai nữa. Vì thế, những chuyện kể về Đức Giêsu phần nào cũng tương tự như bao chuyện kể khác, về Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Đức Phật, Đức Khổng, v.v... Làm sao người ta có thể tin vào Đức Giêsu nhiều hơn là tin vào các vị giáo chủ khác? Người thời nay chịu ảnh hưởng tinh thần khoa học thực nghiệm, lời nói suông không còn dễ dàng được nhận là đúng. Muốn họ tin hay chấp nhận phải có bằng chứng. Vì thế, làm tông đồ thời nay cần làm chứng hơn là chỉ rao giảng.
Rao giảng thì chỉ cần một mớ kiến thức, một chút suy luận; còn làm chứng đòi hỏi một sự dấn thân thật sự, nó huy động cả một cuộc đời, cuộc đời toàn diện. Rao giảng mà không làm chứng chỉ là nói lên những lời nói rẻ tiền, đương nhiên ít tác dụng. Còn làm chứng là nói lên những lời nói có giá trị sống động vì người nói dám lấy cả cuộc đời, cả mạng sống để bảo chứng cho lời nói ấy. Nhờ thế mà người nghe mới dám đặt niềm tin.
Những người ngoài Kitô giáo phải dựa vào đâu để biết Kitô giáo là chính đạo? để tin Đức Kitô là «Đấng cứu độ», thậm chí là «Đấng cứu độ duy nhất»? Làm sao họ tin được, khi mà đời sống của người Kitô hữu chẳng khác gì và chẳng hơn gì của họ? khi mà người Kitô hữu chẳng chứng tỏ được một cách cụ thể mình đã được cứu độ ở chỗ nào? Nếu được cứu độ, ít ra người Kitô hữu chúng ta phải tự nhiên có một lối sống nào đó chứng tỏ mình được cứu độ, chẳng hạn người khác có thể thấy nơi chúng ta nét vui tươi, hạnh phúc và tình yêu thương nhau được biểu lộ cách hồn nhiên trong đời sống, bất chấp thuận cảnh hay nghịch cảnh. Sống như thế chính là làm chứng!
Trong việc tông đồ, số người rao giảng Tin Mừng tương đối đã ít, nhưng số người sẵn sàng trả giá, đôi khi rất mắc, để thực hành Tin Mừng mà mình rao giảng thì ít hơn rất nhiều. Ta thuộc hạng người nào?
Nguyễn Chính Kết