Vai trò của Đức Maria
trong công cuộc của Đức Giêsu

TIN MỪNG: Ga 2:1-11
Tiệc cưới Cana
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana, miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: «Họ hết rượu rồi». Đức Giêsu đáp: «Thưa mẹ, chuyện đó can gì đến mẹ và con? Giờ của con chưa đến». Thân mẫu Người nói với gia nhân: «Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo!» Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: «Các anh đổ đầy nước vào chum đi!». Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: «Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc». Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: «Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ». Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana, miền Galilê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
o0o
1. Đức Giêsu tham dự tiệc cưới và cứu chữa thế kẹt cho đám cưới
Ngay từ khởi thủy, «Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ» (St 1:27), để từng cặp nam nữ sống thân thiện yêu thương nhau, trở nên một với nhau, «cả hai trở thành một xương thịt» (St 2:24). Thiên Chúa muốn họ sống với nhau thành một tổ ấm, một gia đình, để yêu thương nhau, nâng đỡ nương tựa nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau, và để sinh con cái hầu duy trì nhân loại đến muôn đời. Vì thế, đôi nam nữ yêu thương nhau, kết hợp với nhau thành vợ chồng, thành gia đình, đồng thời cộng tác với Ngài trong công cuộc tiếp tục sáng tạo con người, là điều hết sức tốt đẹp và thánh thiện, vì đó là kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa.
Ngay từ khởi thủy, «Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ» (St 1:27), để từng cặp nam nữ sống thân thiện yêu thương nhau, trở nên một với nhau, «cả hai trở thành một xương thịt» (St 2:24). Thiên Chúa muốn họ sống với nhau thành một tổ ấm, một gia đình, để yêu thương nhau, nâng đỡ nương tựa nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau, và để sinh con cái hầu duy trì nhân loại đến muôn đời. Vì thế, đôi nam nữ yêu thương nhau, kết hợp với nhau thành vợ chồng, thành gia đình, đồng thời cộng tác với Ngài trong công cuộc tiếp tục sáng tạo con người, là điều hết sức tốt đẹp và thánh thiện, vì đó là kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa.
Vì thế, đời sống hôn nhân hay gia đình nằm trong kế hoạch đầu tiên – có thể nói là kế thượng sách – của Thiên Chúa, tức kế hoạch sáng tạo. Do đó, ơn gọi sống đời hôn nhân và gia đình là một ơn gọi hết sức cao quí. Chính vì thế, phép lạ mở đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, là phép lạ dành cho tiệc cưới Cana. Cả Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ của Ngài cùng tham dự tiệc cưới này. Điều đó nói lên rằng Thiên Chúa – qua con người Đức Giêsu – đã đánh giá bậc sống hôn nhân gia đình rất cao quí, đáng được ủng hộ và chúc phúc.
Có điều đáng tiếc là kế hoạch đầu tiên này đã bị tội nguyên tổ làm hư hỏng, nên Thiên Chúa đã đưa ra một kế hoạch thứ hai là kế hoạch cứu chuộc. Ơn gọi linh mục hay tu sĩ nằm trong kế hoạch cứu rỗi này. Trong kế hoạch cứu chuộc này, theo suy nghĩ của Giáo Hội, thì Đức Giêsu đã lập bí tích hôn nhân trong tiệc cưới Cana này.
2. Kế hoạch cứu chuộc làm kế hoạch sáng tạo thành công tốt đẹp hơn
Trong đám cưới, rượu được đưa ra ban đầu chắc chắn cũng là loại rượu ngon, ngon nhất trong khả năng kinh tế của gia đình đôi tân hôn. Nhưng sự trục trặc đã xảy ra khiến cho nếu không có sự can thiệp cứu chữa của Chúa Giêsu, gia đình đôi tân hôn sẽ bị mất mặt hay mang tiếng, và đám cưới sẽ mất vui rất nhiều. Nhưng chính nhờ có sự trục trặc đó, mà Đức Giêsu mới ra tay cứu chữa. Và một khi Ngài ra tay cứu chữa thì bữa tiệc lại trở nên vui hơn, tốt đẹp hơn là khi không có trục trặc xảy ra. Rượu sau này là loại rượu ngon hơn, chắc chắn khiến khách dự vui hơn, uống được nhiều hơn, và hài lòng hơn bình thường rất nhiều. Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu.
Công trình sáng tạo của Thiên Chúa hết sức tốt đẹp. Nhưng rồi có sự trục trặc xảy ra do tội lỗi con người. Nhưng sự cứu chuộc của Chúa Giêsu không phải chỉ là chữa cho tình trạng đó đỡ xấu đi, mà còn làm cho kết quả cuối cùng còn tốt đẹp hơn là khi không xảy ra sự trục trặc. Chính vì thế, trong lễ đêm Phục sinh, Giáo Hội đã không ngần ngại tuyên bố: tội nguyên tổ là một tội hồng phúc. Vì chính nhờ có tội đó mới có kế hoạch cứu chuộc. Và theo sự khôn ngoan và toàn năng của Thiên Chúa, chắc chắn kế hoạch cứu chuộc này không chỉ chữa lại kế hoạch sáng tạo đã bị hư hỏng, mà còn làm cho kế hoạch sáng tạo ấy thành công mỹ mãn, tốt đẹp lên gấp bội. Có hành xử như thế, Thiên Chúa của chúng ta mới đúng là Thiên Chúa cao cả vĩ đại, đầy quyền năng. Và chỉ Ngài mới có khả năng làm cho điều xấu nhất trở nên tốt nhất mà thôi. Đó chính là lý do để người Kitô hữu luôn luôn tin tưởng vào sự khôn ngoan, tình yêu thương và quyền năng vô biên của Ngài để luôn luôn sống hân hoan và tràn đầy hy vọng vào tương lai.
3. Sự đồng công của Đức Mẹ trong công việc của Chúa Giêsu
Sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ, và sự can thiệp đặc biệt của Ngài để cứu nguy cho đám cưới ấy là một dấu hiệu hết sức ý nghĩa. Cuộc hôn nhân hay đám cưới (vốn thuộc kế hoạch thứ nhất) đã lâm vào tình trạng nguy khốn (hình ảnh của sự trục trặc gây ra do tội nguyên tổ) đã được Chúa Giêsu cứu chữa một cách hết sức tốt đẹp (kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa đã thành công).
Sự cứu chữa ấy có sự đóng góp hết sức quan trọng của Mẹ Maria: Chúa Giêsu đã thực hiện sự cứu chữa ấy theo yêu cầu đầy tính thương người của Mẹ mình. Trong công việc cứu chữa đám cưới này, Đức Mẹ đã tỏ ra tư cách của mình là người Đồng Công Cứu Chuộc với Chúa Giêsu một cách hết sức rõ ràng và cụ thể. Công việc chính yếu là do Chúa Giêsu, nhưng nếu không có Mẹ Maria thì sự cứu chữa ấy có thể đã không xảy ra.
Người Kitô hữu cần ý thức hơn về vai trò rất quan trọng của Mẹ Maria trong việc nên thánh và sống đời Kitô hữu của mình. Trong việc nên thánh, những Kitô hữu nào biết cậy nhờ vào sự bảo trợ của Mẹ Maria thì thường là dễ thành công hơn.
4. Mẫu gương quan tâm đến nhu cầu của tha nhân nơi Mẹ Maria
Lý do khiến Đức Mẹ trở nên Đấng Đồng Công với Chúa Giêsu, chính là tình yêu thương chan hòa của Ngài đối với mọi người, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo. Tình yêu thương ấy đã khiến Đức Mẹ trở nên hết sức nhậy bén trước nhu cầu, nỗi khó khăn, đau khổ cũng như niềm vui, niềm hạnh phúc của người khác. Vì thế, trong đám tiệc, khi chủ nhà sắp hết rượu, Đức Mẹ đã nhận ra ngay nỗi lo lắng của họ, cho dù theo lẽ thường họ cố gắng không biểu lộ ra. Chắc chắn có biết bao phụ nữ cùng đi dự đám cưới ấy đã không nhận ra điều ấy.
Sự nhạy bén đó Mẹ có được là do lòng yêu thương của Mẹ khiến Mẹ luôn quan tâm đến người khác, quan tâm đến từng chi tiết của đời sống. Có thể nói tình yêu luôn luôn phải được biểu lộ bằng sự quan tâm. Mặc dù quan tâm không phải luôn luôn là dấu chứng của yêu thương, nhưng chắc chắn rằng không quan tâm thì cũng đồng nghĩa với không yêu thương.
Chúng ta thường nghĩ rằng mình yêu thương người khác, nhất là những người gần gũi chúng ta nhất: cha mẹ, vợ con (hay chồng con), anh chị em ta. Nhưng có đích thật chúng ta yêu thương những người ấy không? chúng ta có thật sự quan tâm đến niềm vui, nỗi buồn, niềm mong ước, hy vọng hay nhu cầu của họ không? chúng ta có sẵn sàng thỏa mãn những nhu cầu ấy bất chấp phải hy sinh ít nhiều thì giờ, tiền bạc, sức lực của ta không? chúng ta sẵn sàng như thế tới mức độ nào?
Kết luận
Trong tiệc cưới Cana, ta thấy Mẹ Maria biết quan tâm đến nhu cầu của những người chung quanh trong môi trường mình sống, đồng thời tìm cách giúp đỡ họ khi có thể. Qua mẫu gương ấy, chúng ta nên cố gắng bắt chước Mẹ, biết biểu lộ tình thương của mình đối với những người chung quanh một cách cụ thể bằng sự quan tâm thật sự đối với những niềm vui, nỗi buồn, những thuận lợi cũng như những bất lợi của họ, đồng thời sẵn sàng giúp đỡ họ trong khả năng của mình. Tránh tính cách hay thái độ thường xuyên vô tình, hay cố tình làm ngơ trước những nhu cầu cũng như những đau khổ của người khác. Sự thánh thiện hay đạo đức của chúng ta phải được biểu lộ qua tình yêu thương cụ thể đối với những người cùng sống chung trong môi trường gia đình, xí nghiệp, tập thể, xã hội với chúng ta.
Nguyễn Chính Kết
- Từ khóa :
- hôn nhân
- ,
- vai trò của Mẹ Maria
Gửi ý kiến của bạn