Sống Niềm Tin 3 MARCEL VĂN TU SĨ DÒNG CHÚA CỨU THẾ VIỆT NAM (15/3/1928 – 10/7/1959)

26/05/201910:01 SA(Xem: 9432)
Sống Niềm Tin 3 MARCEL VĂN TU SĨ DÒNG CHÚA CỨU THẾ VIỆT NAM (15/3/1928 – 10/7/1959)

Sống Niềm Tin 3


MARCEL VĂN

TU SĨ DÒNG CHÚA CỨU THẾ VIỆT NAM

(15/3/1928 – 10/7/1959)

 



Đôi dòng tiểu sử:


Marcel Văn tên thật là Nguyễn Tân Văn.
Sinh ngày 15 tháng 3 năm 1928, tại Ngăm Giáo, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ngăm Giáo là một làng nhỏ nằm giữa Hà Nội và Hải Phòng, thuộc vùng châu thổ sông Hồng.
Rửa tội ngày 16 tháng 3 năm 1928.
Tên thánh: Gioakim.
Ngày 22 tháng 6 năm 1944, Văn nhận thư báo được vào dòng của cha Letourneau.
Ngày 15 tháng 7 rời gia đình.
Ngày 17 tháng 10 năm 1944 gia nhập lớp Dự tu với tên dòng là Marcel.
Nhận áo dòng ngày 8 tháng 9 năm 1945.
Khấn dòng ngày 8 tháng 9 năm 1946 (cùng ngày khấn với thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu 8/9/1890).


Ngày 7 tháng 2 năm 1950 vào Saigon, fqOiNKVlwOwtjcp2lBm3bkh-dqsIsy4GMy9xhmfJOgtTyGz7NVoFe7zehtN50whdCk-xpHfwHfukAVttIV8FWRX0wjiE-E5SJz4yjNQjx9wZ3UBDj_AITQw-2O3O2tT-of7vBQ_BEEvOi8alMQ
Tháng 3 năm 1952 lên phục vụ tại Đà Lạt,


Ngày 14 tháng 9 năm
 1954, Văn trở về phục vụ tại Nhà Hà Nội (Hiệp định chia đôi đất nước 11/7/1954), 

Ngày 7 tháng 5 năm 1955 Văn bị bắt ngoài đường phố Hà Nội, bị tra hỏi, bắt giam, tra tấn… Rời trại giam Hỏa Lò, Văn bị đưa đi trại giam Mõ Chén cách Hà Nội hơn 50 cây số.
Tháng 8 năm 1957, Văn bị đưa đi giam ở Yên Bình, cách Hà Nội 150 cây số về hướng Tây Bắc. Rất nhiều ngày bị đánh đập, giam trong xà lim, bỏ đói, tra tấn khủng khiếp.
Tháng 6 năm 1959, Văn kiệt sức, bị lao phổi nặng,
Lúc 10 giờ ngày 10 tháng 7 năm 1959, Văn về với Chúa trong an bình.


Cuộc đời của một con người


Văn là con thứ ba trong một gia đình đạo hạnh, hai người trước là một trai và một gái. Văn còn có thêm một người em gái, tên là Anna Tế, nay là nữ tu dòng Nữ Chúa Cứu Thế tại Montreal, Canada.

Ngay từ bé, Văn đã tỏ rõ hai đặc tính, một là biết vận dụng lý trí một cách cương quyết, hai là có trí nhớ các chi tiết một cách lạ lùng.

1935 - 1940: Mang ý tưởng dâng mình cho Chúa và được gia đình ủng hộ (như chúng ta thường thấy trong các gia đình Công giáo miền Bắc), khi vừa rời tuổi thơ, Văn được gởi đến sống trong một nhà xứ (Hữu Bằng) với ý hướng học tập La ngữ và các môn học khác chuẩn bị để vào chủng viện. Nhưng mọi sự đã không xảy ra như mong muốn. Tình trạng bê bối trong nhiều lãnh vực, cách riêng trong mối quan hệ nam nữ, buông tuồng trong cách sống chung và bè phái trong tập thể gây ra tình trạng bất công trong tập thể những thanh thiếu niên sống trong nhà xứ, cùng với sự thờ ơ và nhẫn tâm của cha xứ đã đẩy Văn vào ngõ cụt. Văn đã phải chịu đựng hoàn cảnh này rất lâu, nhiều toan tính nhưng đều không thể thực hiện được.

1940: Bản tính cương quyết và thẳng thắn đã đánh bật Văn ra khỏi tập thể nhà xứ. Đúng vào lúc đó, gia đình Văn suy sụp vì làm ăn thất bại, cha Văn lâm vào nghiện ngập. Theo lề thói bình thường của một vùng quê toàn tòng, gia đình Văn đã không chấp nhận sự trở về của Văn. Từ đó, Văn trở thành cậu bé không nhà không cửa, lang thang đầu đường xó chợ và nếm đủ mọi vị đắng cay cuộc đời. Đây là giai đoạn bi thảm nhất của Văn trong thời niên thiếu, sau này, thập giá sẽ còn cắm ngập vào đời Văn một cách sâu đậm hơn nữa. Tuy nhiên, chúng ta thấy rõ bàn tay Chúa dẫn đưa những ai đặt lòng trông cậy nơi Chúa, Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Văn đã đi qua những khổ đau nhất của cuộc đời, nhưng bàn tay Chúa vẫn đỡ nâng Văn. Sau này Văn ý thức điều đó hơn ai hết.

1941 – 1942: Được gia đình đón nhận lại trong ý hướng trở lại nhà xứ Hữu Bằng, một lần nữa, Văn trở về địa ngục trần gian. Lần này, Văn khôn khéo hơn để có thể đi hết quãng đường niên thiếu. Hết sức khôn khéo và kiên trì, Văn lần lượt vượt qua sự đố kỵ và bè phái. Văn khép mình vào một sự chịu đựng liên lỉ để cố gắng đi đến đích, tránh va chạm và luôn chịu sự thua thiệt. Mãn thời kỳ niên thiếu, Văn được gia nhập Chủng viện Lạng Sơn. Nhưng chỉ được 6 tháng, Chủng viện phải đóng cửa vì chiến tranh và vì thiếu nguồn lương thực tiếp tế. Có những người bạn của Văn thời đó hiện nay còn sống như cha già Khấn đang nghỉ hưu ở Cali, Hoa Kỳ. Bóng thập giá không bao giờ khuất trên đường Văn đi.

Trong khoảng thời gian này, Văn làm quen được với chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, mối tình thân thiết giữa Văn và Têrêsa rất sâu đậm. Qua nhật ký Văn để lại cho biết, Văn đã từng trò chuyện thân mật với Têrêsa. Mọi băn khoăn Văn đều tâm sự với chị và nghe được những lời khuyên bảo khôn ngoan từ chị thánh. Chị Têrêsa trở thành người linh hướng vững chắc cho Văn, chị trở thành người chị mến yêu của Văn. Chính chị thánh Têrêsa đã hướng dẫn Văn trên con đường dâng mình cho Chúa, đặc biệt trong việc tìm đến với Dòng Chúa Cứu Thế trong ơn gọi trợ sĩ (tu sĩ không chức linh mục). Khi Văn bày tỏ ý muốn làm người trợ sĩ trong Dòng, cha bề trên lấy làm ngạc nhiên về một cuộc chọn lựa dứt khoát không do dự của Văn. Ngài biết đâu Văn đã có vị linh hướng khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa.

1944 – 1954: Văn tìm đến với Dòng Chúa Cứu Thế và dấn thân trong Dòng Thánh. Lần lượt phục vụ tại Saigon rồi lên Đalat. Sau ngày đất nước chia đôi, ngược dòng người chạy trốn cộng sản vào Nam, Văn được bề trên sai trở lại Hà Nội, cùng với Cha Giuse Vũ Ngọc Bích, thầy Clemente Đạt giữ đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thái Hà. Khi trở về Hà Nội để sống trong chế độ Cộng sản, trong nhật ký Văn để lại, với ý nghĩ riêng, Văn rất ngán ngẩm phải về lại Hà Nội khi đoàn người lũ lượt bỏ đi. Văn cũng rất ái ngại chế độ với chủ trương vô thần, nhưng vì đức vâng lời, Văn đã cầu nguyện và Văn tự nhủ: “Tôi đến Hà Nội để ít nhất có một người yêu Chúa ở giữa những người cộng sản”.

Đức vâng lời và lòng thánh thiện đã giúp Văn tiếp tục khám phá ra ơn gọi của mình, nhận biết thánh ý Chúa trong hoàn cảnh riêng tư của mình. Văn đã biết và can đảm, quảng đại thi hành. Văn muốn trở thành muối, Văn muốn trở nên men. Văn đã sống tận cùng thân phận làm muối và men của mình.

Qua nhật ký của Văn, người ta nhận ra Văn đã đến một giai đoạn vắng bóng chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Thì ra, khi Văn đã đạt tới đỉnh cao của sự kết hiệp với Chúa Giêsu, người linh hướng khôn ngoan tuyệt vời đã âm thầm rút lui. Không còn đọc được những cuộc trao đổi với Têrêsa nữa mà chỉ còn là những trao đổi thân tình với Chúa Giêsu. Từ giai đoạn này, Văn đã nói chuyện với Chúa Giêsu như nói với một người bạn, một người anh, một người cha dấu yêu của mình, Văn ngoan ngoãn khép mình trong lời dạy bảo của Chúa, ngọt ngào, êm đềm, nhưng cũng không ít đắng cay. Chúa vẫn luôn dành thập giá cho người Chúa yêu mến.

Ở Hà Nội, Văn trung thành với những công việc hàng ngày do cha Bề trên giao phó. Cảnh hỗn loạn và những lời lộng ngôn làm Văn rất đau khổ, nhưng bây giờ Văn đã học được cách sống thân mật với Chúa. Văn đã biết chăm bón cho đời mình chờ ngày nở hoa trên thập giá. Một hôm, Văn có việc phải đi sửa chiếc xe Mobylette, Văn bị bắt ngay sau một cuộc đối thoại tại chỗ Văn sửa xe. Người ta nói một điều sai về chế độ ở Saigon, Văn thấy không đúng nên lên tiếng bảo vệ sự thật. Thái độ thẳng thắn và trung thực đã đưa Văn vào lao lý.

Trong các trại tù, cho dù vô cùng khổ cực, Văn vẫn một lòng trung thành với Chúa, trung thực với chính mình và hết lòng yêu thương Hội Thánh. Các lá thư của Văn gởi ra bằng nhiều cách đã cho chúng ta nhiều tin tức quí báu. Người ta chỉ muốn Văn nhận tội làm gián điệp để kết án Văn, nhưng Văn không nhận vì đó là sai sự thật. Người ta lại muốn Văn nhận làm báo cáo viên cho họ để theo dõi cha Bề trên, nhưng vẫn Văn cương quyết không nhận. Người ta còn chiêu dụ Văn gia nhập nhóm “công giáo yêu nước” để chống lại Giáo Hội, đời nào Văn nhận làm điều đó. Văn đã phải trả giá rất đắt cho những lập trường của mình.

Cả cuộc đời Văn đã làm chứng cho tình yêu, một tình yêu duy nhất, trọn vẹn và dâng hiến. Tình yêu duy nhất này chỉ dành cho Thiên Chúa và Hội Thánh của Người.


Hai ý tưởng từ cuộc đời Văn đáng làm cho chúng ta suy nghĩ :
- Có một người yêu Chúa ở giữa những người cộng sản.
- Lên tiếng và bảo vệ sự thật.


Viết ngày 4 tháng 5 năm 2009 (năm kỷ niệm 50 năm ngày Văn qua đời: 10/7/1959).

Lm. Vĩnh Sang, dcctvn (http://www.dcctvn.net/news.php?id=4279)



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Gs 5,9a.10-12: (9) Đức Chúa phán với ông Giôsuê: «Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập». • 2Cr 5,17-21: (17) Ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, cái mới đã có rồi. (19) Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa. • TIN MỪNG: Lc 15,1-3.11-32
26/03/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Xh 3,1-8a.13-15: (7) Đức Chúa phán: «Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập. (8) Ta muốn giải thoát chúng». • 1Cr 10,1-6.10-12: (12) Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã. • TIN MỪNG: Lc 13,1-9
06/03/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Ge 2,12-18: (13) Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ. • 2Cr 5,20–6,2: (20) Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. (21) Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người. • TIN MỪNG: Mt 6,1-6.16-18
03/03/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Hc 27,4-7: (5) Có thử lửa mới biết bình thợ gốm, nghe chuyện trò biết ai rởm ai hay. (6) Xem quả thì biết vườn cây, nghe lời miệng nói biết ngay lòng người. • 1Cr 15,54-58: (58) Anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích. • TIN MỪNG: Lc 6,39-45
25/02/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • 1Sm 26,2.7-9.12-13.22-23: (8) Ông Avisai nói với ông Đavít: «Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu không cần đâm nhát thứ hai». (9) Ông Đavít nói với ông Avisai: «Đừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu!». • 1Cr 15,45-49: (48) Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. • TIN MỪNG: Lc 6,27-38
19/02/2019
(Tìm hiểu Tin Mừng theo thánh Gio-an) – Bài 14 Có người thắc mắc, sao Chúa Giê-su đã hô “nào đứng dậy ! chúng ta đi khỏi đây”, rồi lại nói tiếp…
17/02/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Gr 17,5-8: (5) Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! (7) Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. • 1Cr 15,12.16-20: (19) Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. (20) Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. • TIN MỪNG: Lc 6,17.20-26
08/02/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Is 6,1-2a.3-8: (3) «Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!» • 1Cr 15,1-11: (10) Tôi có là gì thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi. • TIN MỪNG: Lc 5,1-11
03/02/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Gr 1,4-5.17-19: (17) Giavê nói với Giêrêmia: «Còn ngươi, hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ». • 1Cr 12,31–13,13: (12,31)Trong các ơn huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả. (13,1) Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng (…) (3) Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. (…) (7) Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được (…) (13) Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. • TIN MỪNG: Lc 4,21-30
27/01/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Nkm 8,2-4a.5-6.8-10: (9) Tổng trấn Nêhêmi, thầy tế lễ Exơra tuyên bố: «Hôm nay là một ngày thánh dành cho Thượng Đế Hằng Hữu». • 1Cr 12,12-30: (13) Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể, và đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất. (27) Vậy anh em chính là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. • TIN MỪNG: Lc 4,14-21
FOLLOW US
ĐĂNG KÝ NHẬN TIN MỚI
Thông tin của bạn được giữ kín tuyệt đối và có thể hủy đăng ký bất cứ lúc nào. Nhập địa chỉ email của bạn
THÔNG TIN LIÊN LẠC