Đức Giêsu đến với thế giới, để làm một cuộc cách mạng tâm linh, chứ không phải để làm cách mạng chính trị hay xã hội. Điều lạ lùng là Ngài chỉ xuất hiện có 3 năm cùng với 12 môn đệ, gồm những ngư dân ít học, bình dân, không có địa vị xã hội, nhưng đã ảnh hưởng cả thế giới suốt 25 thế kỷ qua. Và những người đi theo Ngài, tuân theo những giáo huấn của Ngài, cũng làm nên biết bao điều lạ lùng ích lợi cho xã hội, cho thế giới.
ĐTC Gioan-Phaolô II là người đầu tiên dùng từ «Tân Phúc Âm hóa». Tân Phúc Âm hóa không phải là một Phúc Âm mới, nhưng là «mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp và mới trong cách diễn tả». Tân Phúc Âm hóa chủ yếu hướng tới những người, tuy đã được rửa tội, nhưng đang xa lìa Giáo hội (...), để giúp họ tái gặp gỡ Thiên Chúa, tái khám phá đức tin, mang lại vui mừng và hy vọng trong đời sống bản thân, gia đình và xã hội.
Người Kitô hữu thường được nhắc nhở phải làm tông đồ, nhưng làm tông đồ là làm cái gì? -- Thắc mắc đó khiến tôi nhận ra: Vì các môn đệ Đức Giêsu là tông đồ, nên mọi việc các ngài làm đều là việc tông đồ. Như vậy, để làm tông đồ, thì tôi phải LÀ TÔNG ĐỒ đã. Là tông đồ thì phải là người liên kết với Đức Giêsu, lấy Ngài làm lẽ sống của mình, và hoàn toàn làm theo thánh ý Ngài như một công nhân hoàn toàn làm theo ý muốn của ông chủ mình.
Việc truyền bá Kitô giáo tại Trung Hoa vừa gặp nhiều khó khăn vừa không được may mắn. Cho tới nay, Kitô giáo tại Trung Hoa chỉ là một thiểu số rất nhỏ, mặc dù Kitô giáo đã tới Trung Hoa từ thế kỷ VI, dù có rất nhiều nỗ lực phúc âm hóa và hội nhập văn hóa của các thừa sai.
Kitô giáo vốn xuất phát từ Á châu, vì nước Do Thái thuộc Tiểu Á, nên từ nguyên thủy, Kitô giáo mang sắc thái văn hóa Á châu. Nhưng vì thời Đức Kitô và các Tông Đồ, Tiểu Á nằm trong bờ cõi Đế Quốc Rôma vốn chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-La (Hy Lạp & La Tinh), nên để truyền giáo tại Âu Châu, Giáo Hội thời sơ khai đã phải thích ứng sứ điệp Kitô giáo với nền văn hóa Tây Phương và đã thành công.
Nghe bài Thương Khó trong Chúa nhật Lễ Lá, ta có nhận ra ta đã từng có lần phản bội như Giuđa, có lần chối bỏ sự thật như Phêrô, có lần phủ nhận điều sai mình đã phạm như Philatô, có lần hùa theo đám đông làm những điều sai trái như đám dân Do Thái, có lần dùng quyền để kết án sai trái cho người khác như thượng tế Caipha, v.v...?
Xin gửi đến quý độc giả bài viết của Linh Mục Christopher Chatteris đề cập đến việc giảng thuyết, dựa trên kinh nghiệm và các tác phẩm của Giám Mục Kenneth Edward Untener, là một mục tử hết lòng với việc nghệ thuật rao giảng Lời Chúa.
Người Việt Nam xưa đặt rất nặng việc Trung Quân, Hiếu Phụ Mẫu. Đó là hai bậc cha mẹ. Các nhà truyền giáo khi đến Việt Nam, đã giới thiệu cho người Việt một người cha nữa, đó là Cha Trên Trời, hay Thiên Chúa. Nghĩa là người Kitô hữu có Ba Cha để tỏ lòng hiếu thảo: Thiên Chúa, Hàng Giáo Phẩm (thay cho hàng vua, quan), và cha mẹ trong gia đình. Từ đó hình thành «Thần học Tam Phụ».
Công Đồng Vatican II bế mạc năm 1965. Sau đó, các Kitô hữu trong nhiều quốc gia trên địa cầu bắt đầu hưởng ứng việc hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào các nền văn hóa của dân tộc mình. Nói chung, các nhà thần học thuộc Thế Giới Thứ Ba - thế giới của những dân tộc bị áp bức, nghèo, kém phát triển - đã hưởng ứng rất tích cực tinh thần hội nhập văn hóa của Công Đồng Vatican II.
Có những người không phải Kitô hữu, thậm chí không theo tôn giáo nào cả, nhưng họ sống theo lương tâm, hoặc theo giáo huấn một vị giáo chủ nào đó, thì trong nhiều trường hợp, đời sống của họ phần nào rất phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.